CÁC LOẠI NHẠC CỤ DÂN CA NAM BỘ
ĐÀN BẦU
Trong cộng đồng các dân tộc trên thế giới,từ xa xưa đã ý thức việc dùng “ngôn ngữ giao tiếp” để hòa nhập và cùng tồn tại. Bên cạnh ngôn ngữ cơ thể và chữ viết có hệ mã riêng thì ngôn ngữ “âm nhạc” mang một giá trị tinh thần, giá trị tâm linh tinh túy. Đối với dân tộc Việt Nam, âm nhạc truyền thống mềm mại nhưng linh hoạt, dữ dội nhưng êm đềm, tâm tình nhưng đầy khát vọng và giá trị cội nguồn cao cả....ĐÀN TRANH
Đàn bầu, tên chữ là độc huyền cầm (獨絃琴), là loại đàn một dây của người Việt, thanh âm phát ra nhờ sử dụng que hay miếng gảy vào dây. Dựa theo cấu tạo của hộp cộng hưởng, đàn bầu chia hai loại là đàn thân tre và đàn hộp gỗ.
Đàn bầu có mặt phổ biến ở các dàn nhạc cổ truyền dân tộc Việt Nam...
ĐÀN NGUYỆT
Đàn nguyệt là nhạc cụ đi giai điệu chủ chốt trong dàn nhạc Hát văn thờ. Đàn nguyệt còn được gọi là đàn song vận (đàn 2 dây), nguyệt cầm (cây đàn hình mặt trăng), đàn kìm (từ miền trung trở vào) là một trong những nhạc cụ đặc sắc của người Việt đã gắn bó với lịch sử dân tộc từ khá sớm...
ĐÀN NHỊ
Đàn nhị là nhạc cụ thuộc bộ dây có cung vĩ, do đàn có 2 dây nên gọi là đàn nhị (二). Đàn xuất hiện ở Việt Nam khoảng thế kỷ 10. Ngoài người Kinh, nhiều người dân tộc thiểu số Việt Nam cũng sử dụng rộng rãi nhạc cụ này (Tày, Nùng, Thái, Mường, Dao, Giấy, H’Mông v.v.)...
ĐÀN TAM
Đàn tam có âm sắc không giống các đàn khảy dây khác như đàn tỳ bà, đàn nguyệt hay đàn tứ. Điều này có lẽ chịu ảnh hưởng phần nào bởi mặt bầu vang bịt da trăn. Đàn tam có màu âm vang, ấm, sáng sủa, thích hợp rộn rã. Dây đàn được lên cách nhau một quãng 4 đúng và 5 đúng Sol - Do -Sol hoặc Sol - Re - Sol. Tuy nhiên khi ở quãng thấp âm sắc đàn tam hơi đục, dùng để thể hiện những giai điệu trầm hùng, khỏe khoắn...